Phổ biến Chromi

Crocoit (PbCrO4)Quặng chromi

Chromi là nguyên tố phổ biến thứ 21 trong vỏ Trái Đất với nồng độ trung bình 100 ppm.[12] Các hợp chất chromi được tìm thấy trong môi trường do bào mòn các đá chứa chromi và có thể được cung cấp từ nguồn núi lửa. Nồng độ trong đất nằm trong khoảng 1 đến 3000 mg/kg, trong nước biển từ 5 đến 800 µg/lit, và trong sông và hồ từ 26 µg/lit đến 5,2 mg/lit.[13]

Chromi được khai thác dưới dạng quặng chromit (FeCr2O4).[6] Gần một nửa quặng chromit trên thế giới được khai thác tại Nam Phi, bên cạnh đó Kazakhstan, Ấn ĐộThổ Nhĩ Kỳ cũng là các khu vực sản xuất đáng kể. Các trầm tích chromit chưa khai thác có nhiều, nhưng về mặt địa lý chỉ tập trung tại Kazakhstan và miền nam châu Phi.[14]

Khoảng 15 triệu tấn quặng chromit dưới dạng có thể đưa ra thị trường được sản xuất vào năm 2000, và được chuyển hóa thành khoảng 4 triệu tấn chromi-sắt với giá trị thị trường khoảng trên 2,5 tỷ đô la Mỹ vào năm này.

Mặc dù các trầm tích chromi tự nhiên (chromi nguyên chất) là khá hiếm, nhưng một vài mỏ chromi kim loại tự nhiên đã được phát hiện.[15][16] Mỏ Udachnaya tại Nga sản xuất các mẫu của chromi kim loại tự nhiên. Mỏ này là các mạch ống chứa đá kimberlit giàu kim cương, và môi trường khử đã đưa ra sự hỗ trợ cần thiết để sản sinh ra cả chromi kim loại lẫn kim cương.[17]

Mối quan hệ giữa Cr(III) và Cr(VI) phụ thuộc chủ yếu vào pH và các đặc điểm oxy hóa của vị trí quặng, nhưng trong hầu hết các trường hợp Cr(III) là loại chủ yếu,[13] mặc dù ở một vài nơi nước ngầm có thể chứa tới 39 µg trong tổng chromi với 30 µg là Cr(VI).[18]